(*) Bài viết do ROMA ITALIA tổng hợp lại từ Internet và sách báo.
Thành quốc Vatican (tiếng Ý: Stato della Città del Vaticano) là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ bao gồm một vùng đất có tường bao kín nằm trong lòng thành phố Rome, Ý. Với diện tích khoảng 44 hecta, và dân số 869 người (2019), khiến Vatican được quốc tế công nhận là thành quốc độc lập nhỏ nhất thế giới về diện tích và dân số.

Quốc gia này được thành lập năm 1929 theo Hiệp ước Laterano lãnh đạo bởi Giáo hoàng. Tại đây có Điện Tông Tòa - nơi ở của giáo hoàng, và nơi đặt các cơ quan của Giáo triều Rôma. Dù trụ sở Giáo hội Công giáo theo nguyên tắc là Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô - được mệnh danh là nhà thờ mẹ của các nhà thờ Công giáo - nằm ở Rome.
Trong thành phố còn có các công trình quy mô lớn như Vương cung thánh đường Thánh Phêrô với quảng trường của nó, nhà nguyện Sistine và Bảo tàng Vatican. Chúng là nơi lưu trữ một số bức tranh và tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất thế giới. Nền kinh tế của Vatican độc đáo ở chỗ nó được tài trợ bằng việc bán tem bưu chính và đồ lưu niệm du lịch, lệ phí tham quan bảo tàng và bán các ấn phẩm tôn giáo và văn hóa.
"Vatican" và "Tòa Thánh" là hai thực thể riêng biệt. Trong khi "Vatican" là thuật ngữ thường để chỉ về lãnh thổ của một quốc gia với vài trăm công dân, có ý nghĩa về mặt hành chính thì "Tòa Thánh" lại là thuật ngữ bao hàm ý nghĩa rộng lớn trên khía cạnh quan hệ tôn giáo với cơ cấu điều hành trên 1,2 tỷ tín hữu toàn cầu và cả khía cạnh quan hệ chính trị với thế giới thế tục.
Trong các quan hệ ngoại giao và đối ngoại, tên gọi "Tòa Thánh" (tiếng Anh: Holy See) được sử dụng, chứ không phải "Vatican". Văn kiện chính thức của thành phố Vatican được ban hành bằng tiếng Ý, còn của Tòa Thánh được ban hành chủ yếu bằng tiếng Latinh. Hai thực thể này cũng có hộ chiếu riêng biệt: Tòa Thánh cấp hộ chiếu ngoại giao và công vụ, trong khi Thành quốc Vatican cấp hộ chiếu phổ thông cho công dân.
LÃNH THỔ
Cái tên Vatican có từ thời xưa, trước khi Kitô giáo ra đời, xuất phát từ chữ La tinh Mons Vaticanus, nghĩa là ngọn đồi Vatican.

Khi Hiệp ước Latêranô năm 1929 quy định hình dạng hiện nay của Thành phố được khởi thảo, thực tế, đa phần lãnh thổ đề nghị đều nằm bên trong vòng tường này khiến nó được dùng để định nghĩa ranh giới. Ở một số đoạn biên giới không có tường xây khiến những dãy nhà ở đó trở thành một phần biên giới, và một phần nhỏ biên giới được xây dựng mới ở thời hiện đại.
Lãnh thổ bao gồm Quảng trường Thánh Phêrô, không thể tách rời với phần còn lại của Roma, vì thế một đường biên giới ảo với Ý được quy định chạy dọc giới hạn bên ngoài của quảng trường nơi nó giáp với Piazza Pio XII và Via Paolo VI. Via della Conciliazione nối Quảng trường Thánh Phêrô với Roma qua Cầu Thiên Thần (Ponte Sant'Angelo). Con đường nối to lớn này được Mussolini xây dựng sau khi ký kết Hiệp ước Latêranô.
Theo Hiệp ước Latêranô, một số tài sản của Tòa Thánh nằm trong lãnh thổ Ý, mà nổi tiếng nhất là Castel Gandolfo và Nhà thờ Thánh Phêrô, được trao quy chế lãnh thổ bên ngoài tương tự như đối với các đại sứ quán. Những tài sản đó, rải rác trên toàn bộ Rôma và Ý, nơi đóng trụ sở và làm việc của các định chế cần thiết cho tính chất và nhiệm vụ truyền đạo của Tòa Thánh
VƯỜN: Trong lãnh thổ của thành Vatican là những khu vườn thành Vatican (tiếng Ý: Giardini Vaticani), chiếm hơn một nửa diện tích lãnh thổ. Những khu vườn được thành lập từ thời đại Phục Hưng và thời kỳ Baroque. Chúng chiếm xấp xỉ 23 hecta
LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC
Giáo hoàng là ex officio nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ của Thành Vatican. Giáo hoàng đồng thời là Giám mục Giáo phận Rôma, và là nhà lãnh đạo Tòa Thánh và Giáo hội Công giáo Rôma. Danh hiệu chính thức của Giáo hoàng tại Thành Vatican là Quốc trưởng Nhà nước Thành Vatican.
Giáo hoàng là một vị vua không truyền tử, nắm quyền lực, có nghĩa là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tối cao đối với Thành Vatican. Giáo hoàng là vị vua chuyên chế duy nhất tại Châu Âu.
Giáo hoàng không có nhiệm kỳ, không bị phế truất mặc dù ông có thể từ chức. Giáo hoàng được bầu bởi mật nghị gồm các Hồng y dưới 80 tuổi. Các quan chức chính phủ chính của Thành Vatican là Quốc vụ khanh (đồng thời đóng vai trò ngoại trưởng), Chủ tịch Ủy ban lễ nghi Thành quốc Vatican (đồng thời là Thủ hiến), và Chưởng ấn Thành Vatican.
Giáo hoàng hiện tại là Giáo hoàng Phanxicô, tên khai sinh là Jorge Mario Bergoglio và là người Argentina. Quốc vụ khanh hiện nay là Hồng Y Pietro Parolin. Thủ hiến hiện nay là Hồng Y Fernando Vérgez Alzaga.

LỊCH SỬ
Tên gọi "Vatican" đã được dùng trong thời đại của Cộng hòa La Mã là một vùng đầm lầy bên bờ tây sông Tiber cắt qua thành phố Rome. Dưới thời kỳ Đế quốc La Mã, nhiều ngôi làng được xây dựng ở đây, sau khi Agrippina the Elder (14 TCN – 18 tháng 10, 33) tháo khô vùng này và xây dựng các khu vườn của bà vào đầu thế kỷ 1
Trước khi Kitô giáo chuyển đến, nó được cho rằng đây là phần đất hoang không có người sinh sống của Rome. Vùng đất ấy được thần thánh bảo vệ chu đáo hoặc ít nhất là nơi không thích hợp để sinh sống. Khu vực này cũng đã là nơi trước kia thờ phượng nữ thần Phrygian Cybele và người chồng là Attis suốt thời gian của Đế quốc La Mã Cổ đại.
Agrippina (14 BC - 18/10 năm 33 AD) đã rút nước ở ngọn đồi và những khu vực lân cận để xây khu vườn của bà từ trước thế kỉ thứ nhất sau Công nguyên.
Hoàng đế Caligula (31/8/12 - 24/1/41 sau Công nguyên, triều đại: 37 - 41 sau Công nguyên) bắt đầu xây dựng một trường đấu vào năm 40 sau Công nguyên và được hoàn thành bởi Nero, trường đấu Gaii et Neronis.
Tháp kỉ niệm Vatican được sáng tạo một cách độc đáo bởi Caligula đến từ Heliopolis để trang hoàng trường đấu và cũng là vật còn sót lại đến ngay nay. Khu vực này trở thành nơi tử đạo của nhiều Kitô hữu bởi ngọn lửa lớn ở Rome vào năm 64. Truyền thuyết cổ xưa kể rằng nơi này Thánh Phêrô bị đóng đinh treo ngược vào thập giá. Đối diện đấu trường là một nghĩa trang tách ra bởi Via Cornelia. Những công trình chôn cất, lăng tẩm và mồ mả nhỏ cũng như bàn thờ thần ngoại của những tôn giáo khác được xây dựng kiên cố trước khi công trình quảng trường Constantinian Thánh Peter được xây dựng một nửa vào thế kỷ 4 sau Công nguyên.
Những tàn tích của nghĩa trang ngày một tăng dần lên qua các triều đại Giáo hoàng khác nhau suốt thời kỳ Phục Hưng, cho đến khi chúng được khai quật có hệ thống theo lệnh của Giáo hoàng Piô XII từ năm 1939 đến năm 1941.
Vào năm 326, ngôi thánh đường đầu tiên, quảng trường Constantinian, được xây dựng trên mộ của thánh Phêrô. Từ khi xuất hiện thánh đường, bắt đầu có dân cư nhưng thưa thớt quanh quảng trường. Nơi ở của Giáo hoàng nằm gần quảng trường, được xây dựng ngay từ thế kỉ V trong suốt triều đại Giáo hoàng Symmachus.
Các Giáo hoàng trong một vai trò không thuộc tôn giáo đã đến cầm quyền các khu vực lân cận, lập ra Nhà nước Giáo hoàng, có quyền lực trên phần lớn bán đảo Ý hơn một nghìn năm đến giữa thế kỷ 19, khi lãnh thổ của Nhà nước của Giáo hoàng bị tịch thu bởi sự thành lập của Vương quốc Ý.
Ngày 11/2/1929, Tòa Thánh và vương quốc Ý ký Hiệp ước Laterano và giáo ước (hiệp ước giữa Giáo hoàng và chính phủ một nước) thành lập Thành Quốc Vatican.
QUÂN ĐỘI:
Quân đội thành Vatican rất đặc biệt vì nó là đội quân chính quy nhỏ nhất và lâu đời nhất trên thế giới, Đội cận vệ Thụy Sĩ. Được thành lập vào ngày 22 tháng 1 năm 1506 bởi Giáo hoàng Julius II, nó trước tiên được cấu thành bởi lính đánh thuê Thụy Sĩ từ Liên bang Thụy Sĩ. Quân số hiện nay vào khoảng trên 100 người đồng thời kiêm luôn công tác cận vệ Đức Giáo hoàng. Việc tuyển mộ lính mới rất hạn chế, chỉ nam Công giáo Thụy Sĩ mới được đăng ký.
Vatican không có lực lượng không quân cũng như hải quân. Việc phòng thủ bên ngoài được đảm nhận bởi những bang nước Ý xung quanh.
QUẢN TRỊ:
Thống đốc Vatican, thường được biết đến như Thủ hiến hay Thủ tướng Vatican, có trách nhiệm như một thị trưởng, tập trung vào các vấn đề lễ nghi và đối nội Vatican, trong đó có an ninh quốc gia. Hiện nay Vatican có hai lực lượng giữ gìn an ninh là Đội Cận vệ Thụy Sĩ cho Giáo hoàng (Guardia Svizzera Pontificia) và Đội Hiến binh Thành Quốc Vatican (Corpo della Gendarmeria dello Stato della Città del Vaticano).
Quyền lập pháp được trao cho các Hội đồng thuộc Giáo hoàng. Các thành viên là những Hồng y được Giáo hoàng bổ nhiệm, nhiệm kỳ 5 năm. Về tư pháp, Thành Vatican có Tòa án riêng của thành quốc, bên cạnh ba tòa án thuộc Giáo triều Rôma: Tòa Ân giải Tối cao, Tòa Thượng thẩm Rota, và Tối cao Pháp viện. Hệ thống pháp luật dựa trên cơ sở Giáo luật. Nếu Giáo luật không thích hợp, một bộ luật đặc biệt của khu vực sẽ được áp dụng, thường theo sự cung cấp của nước Ý.
Thành Quốc Vatican, một trong những nước châu Âu nhỏ, nằm trên ngọn đồi Vatican, ở phía tây bắc của Rome, vài trăm mét phía tây sông Tiber. Vatican có đường biên giới (tổng cộng dài 3.2 km hay 2 dặm, tất cả đều nằm trong nước Ý). Thành Quốc Vatican là quốc gia nhỏ nhất trên thế giới với diện tích khoảng 0.44 km2.
KHÍ HẬU:
Khí hậu Vatican giống như khí hậu Rome; nhiệt độ, thời tiết Địa Trung Hải êm dịu, những cơn mưa nhỏ bắt đầu từ tháng 9 đến giữa tháng 10 và mùa hạ khô nóng từ tháng 5 đến tháng 8. Một nét đặc trưng của khí hậu Vatican là thường có sương mù đọng lại nhiều, ít có tuyết do nhiệt độ càng ngày càng nóng hơn.
VĂN HÓA
Vatican, chính thành phố đã là một công trình văn hóa có ý nghĩa rất lớn, rất quan trọng. Những công trình như Vương cung thánh đường Thánh Phêrô và nhà nguyện Sistine là nơi có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới, trong đó có những tác phẩm của những nhà nghệ thuật lừng danh như Botticelli, Bernini và Michelangelo. Thư viện Vatican và những bộ sưu tập của viện bảo tàng Vatican có tầm quan trọng rất lớn về lịch sử, khoa học và văn hóa. Năm 1984, Vatican được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Du lịch và hành hương là các nhân tố quan trọng trong đời sống hằng ngày của Vatican. Đức Giáo hoàng thường dâng lễ hàng tuần và các lễ khác, và thường xuất hiện vào các ngày lễ lớn như lễ Phục sinh. Trong những sự kiện đầy ý nghĩa, như những nghi thức ban phép lành, các lễ tấn phong (Giám mục, phong Chân phước...), Ngài thường làm lễ ngoài trời ở quảng trường Thánh Phêrô.
Những giáo dân bình thường về Vatican cũng có thể được gặp Đức giáo hoàng tại buổi Tiếp kiến chung (Vào thứ Tư hàng tuần) và Buổi Kinh Truyền Tin Angelus (Vào Chúa nhật). Có thể có sự thay đổi dựa vào lịch Tông du của ngài hoặc tình trạng sức khỏe.
VĂN HÓA:
Kiểu trang phục sử dụng khi vào Vương cung thánh đường Thánh Phêrô phải là kiểu được thiết kế nhã nhặn và thích hợp cho việc viếng thăm các khu vực tôn giáo. Các du khách và người hành hương đều được nhắc nhở về việc đó, vì Tòa thánh Vatican không chỉ là công trình kiến trúc nghệ thuật mà còn là một nhà thờ. Sau đây là các kiểu trang phục bị ngăn cấm (khi bước vào thánh đường)
Quần short hay váy ngắn trên đầu gối
Áo không có tay áo
Áo hở rốn
Áo (phụ nữ) hở giữa
Áo in những lời lẽ tục tĩu hoặc chống lại Công giáo
Váy ngắn
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:
Do những lý do lịch sử, hệ thống nhà nước của Vatican rất đặc biệt, một hệ thống nhà nước "độc nhất vô nhị". Dưới Giáo hoàng, những người đứng đầu là Quốc vụ khanh và Thủ hiến Vatican. Ở đây, giống như những viên chức khác, tất cả đều được sự bổ nhiệm của Đức Giáo hoàng, cũng như có thể bị cách chức bởi Ngài bất kỳ lúc nào.
Khi Tòa thánh trống ngôi, một Mật nghị Hồng y được triệu tập để bầu Đức Giáo hoàng mới.
Quảng trường thánh Phêrô
Quảng trường Thánh Phêrô (tiếng Ý: Piazza San Pietro) là quảng trường lớn nằm trước Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô ở thành quốc Vatican.
Quảng trường và như kiến trúc hành lang Colonnade được thiết kế bởi Lorenzo Bernini và được xây dựng từ năm 1655 đến năm 1667 dưới triều của Giáo hoàng Alexander VII ban đầu có cấu trúc hình thang vuông, mái vòm trên các cột. Quảng trường dài 340m, rộng 240m, chung quanh có hai hàng mái che gồm 88 trụ lớn và 284 cây cột kiểu đo rich xếp thành hàng bốn. Trên nóc của hành lang là tượng của 140 vị thánh được điêu khắc từ năm 1662 đến năm 1703.
Tâm của quảng trường là cây cột đá Obelisk Ai Cập cổ đại như một tấm bia cổ xưa nhất nơi đây. Trước đó, cột này được dựng ở vận động trường của vua Nero, cách nơi đây 100 mét (là địa điểm nhà thờ Thánh Phêrô hiện nay).
Cột được dời ra đây từ năm 1586 với công dụng như chiếc đồng hồ mặt trời, vào lúc 12 giờ trưa bóng cây cột sẽ chiếu xuống ngay chiếc dĩa bằng đá cẩm thạch trắng. Đối xứng hai bên cây cột là hai bồn phun nước bằng đá. Bồn ở hướng Nam là công trình của Carlo Maderno được tạc vào năm 1613 và bốn hướng Bắc của Carlo Fontana tạo dựng vào năm 1677.
Không gian của quảng trường được tạo thành từ hai phần: Phần thứ nhất: có dạng hình thang ngược có cạnh dài hơn tương ứng với mặt tiền với các động lực phối cảnh cụ thể, với diện tích là 12.300 mét vuông, và thứ hai, một hình bầu dục tròn với đài tưởng niệm Ai Cập ở trung tâm, diện tích 35.300 mét vuông.
Giáo hoàng Pius Đệ Nhị đã cho xây một cầu thang bằng đá cẩm thạch ở phía trước mặt tiền của vương cung thánh đường, được hoàn thành bởi hai bức tượng lớn của Thánh Phêrô (Peter) và Thánh Phaolô (Paul).
Giáo hoàng Alexander VI nhân dịp Năm Thánh năm 1500 đã mở con đường thẳng mới đầu tiên ở Rome, giữa cầu Sant'Angelo và cửa của Cung điện Vatican.
Vào giữa thế kỷ 16, Đức Piô IV đã mở rộng quảng trường ở hai bên và mở đường Via Angelica, từ quảng trường về phía bắc. Giáo hoàng Paul III giao nhiệm vụ cho Antonio da Sangallo xây dựng Scala Regia nằm ở lối vào cung Điện tông đồ từ quảng trường và luôn thẳng hàng với Alessandrina; vị trí của nó sau đó sẽ tạo điều kiện cho việc xây dựng quảng trường Bernini.
Nền của vương cung thánh đường mới cao hơn 3,2 mét so với nền cũ, biến đổi thành hình dạng bầu dục tròn mà không phải elip bởi sẽ khó thiết kế và xây dựng hơn và không bình thường trong kiến trúc thiêng liêng.
Ý tưởng của Bernini-Alessandro VII đã lập luận một cách thích hợp rằng "Đền thờ Thánh Phêrô, phải có một lối mở thể hiện ý tưởng rằng Giáo hội đang giang tay đón những người con về hành hương”
Việc lựa chọn “ba cổng vòm” có liên quan đến nghi thức Công giáo nữa, nhưng đây cũng là một chi tiết trong Cựu Ước, nơi mà sân trong Đền Thờ của Thiên Chúa được Ezekiel mô tả là cổng vòm ba cổng. Cuối cùng, nó có thể gợi lên mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Một hàng dài gồm 140 bức tượng các vị thánh - mỗi bức tượng tương ứng với một cột- tượng trưng cho "những người khải hoàn của Giáo hội" trong mối quan hệ với "Giáo dân - Giáo hội", tức là đám đông tín hữu đang cầu nguyện trên quảng trường, đại diện cho mười hai tông đồ và một Chúa Giêsu do bàn tay của Bernini (có cây thánh giá ở trên đường thẳng của mái vòm phía sau và của đài tưởng niệm phía trước). Kích thước: 198 × 148 mét.
Vương cung thánh đường thánh Peter (Basilica papale di San Pietro)

Vương cung thánh đường Thánh Phêrô (tiếng Ý: Basilica di San Pietro in Vaticano) là một trong bốn nhà thờ lớn nhất ở Vatican. Tên đầy đủ của công trình này là Vương cung Thánh đường Tông Tòa Thánh Phêrô, nhưng đôi khi được gọi tắt là Đền thờ Thánh Phêrô hoặc Nhà thờ Thánh Phêrô.
Được các kiến trúc sư Donato Bramante, Michelangelo, Carlo Maderno và Gian Lorenzo Bernini lần lượt chịu trách nhiệm thiết kế, Vương cung Thánh đường này là kiệt tác nổi tiếng nhất của kiến trúc Phục Hưng và là một trong những nhà thờ lớn nhất trên thế giới. Tuy đây không phải là nhà thờ mẹ của Giáo hội Công giáo Rôma và cũng không phải là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Rôma, Vương cung thánh đường Thánh Phêrô được coi như một trong những thánh đường quan trọng nhất của Công giáo. Công trình này đã được mô tả như một thánh đường "giữ vị trí độc nhất trong Giáo hội Công giáo" và như là "nhà thờ vĩ đại nhất trong những nhà thờ Công giáo".
Nhà thờ hiện nay được xây dựng từ ngày 18 tháng 4 năm 1506 và hoàn thành ngày 18 tháng 11 năm 1626, tức là mất 120 năm để hoàn thiện. Trước đó, vào thế kỷ thứ 4 cũng đã có một nhà thờ được xây dựng trên khu đất hiện tại trong thời đại của Hoàng đế La Mã Constantinus Đại đế. Truyền thống Giáo hội Công giáo Rôma tin rằng, khu vực dưới bàn thờ của vương cung Thánh đường này là phần mộ của Thánh Phêrô - vị giám mục của Rôma và cũng là Giáo hoàng đầu tiên. Vì lý do đó, nhiều Đức Giáo hoàng cũng đã được chôn cất trong nhà thờ này trong giai đoạn sơ khai của Công giáo.
Thánh đường này là nổi tiếng như là một địa điểm hành hương và cho các mục đích phụng vụ. Giáo hoàng thực hiện một số nghi thức phụng vụ tại đây hàng năm, thu hút lượng người tham dự từ 15.000 đến 80.000 người, tập trung trong Đại thánh đường hoặc Quảng trường Thánh Phêrô ngay phía trước. Thánh đường thánh Phêrô có nhiều mối liên hệ lịch sử với nhà thờ Thiên Chúa giáo sơ khai, Giáo hoàng, Cải cách Tin Lành, Phong trào Phản Cải cách và nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là Michelangelo.
Là một kiệt tác kiến trúc, công trình này được coi là một trong những tòa nhà lớn nhất trong thời đại Phục Hưng. Thánh đường thánh Phêrô là một trong bốn nhà thờ xung quanh Roma có tước hiệu Đại vương cung thánh đường. Ngược lại với quan niệm sai lầm phổ biến, thánh đường này không phải là một nhà thờ chánh tòa, bởi vì đây không phải là nơi đặt ngai tòa của một giám mục; ngai tòa của Giáo hoàng với tư cách Giám mục Roma là ở Vương cung Thánh đường Thánh Gioan Latêranô.
Đền thờ đầu tiên được hoàng đế Costantino xây dựng năm 324 trên đài tưởng niệm dựng bên trên mộ thánh Phêrô, gần hí trường Nero nơi ngài đã chịu tử đạo. Các thế kỉ sau đó, đền thờ được sửa sang nhiều lần. Vào năm 1452, nhận thấy sự xuống cấp trầm trọng, Giáo hoàng Nicola V quyết định xây lại và giao nhiệm vụ này cho kiến trúc sư B. Rossellini nhưng mãi đến năm 1502 thì việc xây cất mới được tiến hành với ĐGH Giulio II, Bramante đưa ra độ hòa hình thánh giá Hy Lạp với 1 mái vòm lớn chính giữa và hai mái vòm nhỏ 2 bên.
Qua nhiều lần sửa đổi ý kiến, năm 1546, ĐGH Phaolô II giao cho Michelangelo nhiệm vụ tiếp tục xây cất, sau cái chết của Michelangelo năm 1564, Vignola hoàn thành hai mái vòm nhỏ. Pirro Ligorio G della Porta và D. Fontana hoàn thành mái vòm lớn. ĐGH Phaolô V truyền cho C. Maderno nối dài gian chính giữa đền thờ ra theo hình thánh giá La tinh ngày nay. (Thánh Giá được sử dụng trong các tôn giáo: Thánh Giá Hy Lạp (có hình như dấu +), Thánh Giá La Tinh (có thanh đứng dài và thanh ngang ngắn hơn †), Thánh giá Thánh Phanxicô (giống chữ T), Thánh Giá Chính thống giáo hình ☦︎,...)
Ngày 18/11/1626 ĐGH Urbano VIII long trọng cử hành lễ thánh hiến đền thờ. Bernini xây thêm hai tháp chuông nhỏ, nhưng đã phải phá đi cái thứ nhất vì vết rạn dưới chân móng.
Diện tích đền thờ là 15.160 m2, dài 221.50m. Gian giữa cao 46,20m rộng 27,50m. Gian ngang bên trong dài 137.50m. Mái tròn kể cả thánh giá bên trên cao 132.50m, chu vi 42m, nhỏ hơn mái vòm của Pantheon 1,40m.
MẶT TIỀN
Dài 114.69m, cao 45m kiểu Ba rốc, có 4 trụ chính và 8 cây cột nâng mái tiền đường, với hàng chữ dâng kính dưới thời ĐGH Phaolo V. Bên trên có 5 cửa, cửa chính giữa lớn là nơi giáo hoàng ban phép lành cho giáo dân đến Roma và toàn thế giới vào dịp lễ lớn. Cũng từ cửa bao lớn này, Hồng Y niên trưởng Hồng Y đoàn công bố tên của Đức Tân Giáo hoàng. Trên cùng là sân thượng trang hoàng các bức tượng cao 5.70m: chúa Giêsu, thánh Gioan Tiền Hô, 11 tông đồ (không có Phê rô) và hai chiếc đồng hồ.
TIỀN ĐƯỜNG
Dẫn vào đền thờ dài 71m, rộng 13m, cao 20m. Bên trái là tượng Hoàng đế Carlomagno, bên phải là hoàng đế Costantino do Bernini tạc năm 1670. Có 5 cửa vào: cửa thứ nhất bên phải là cửa Thánh chỉ mở trong các năm Thánh, bên trên chính giữa là bức khảm đá màu danh tiếng của Giotto tựa chiếc thuyền nhỏ hay dẹp yên bão tố tượng trưng cho con thuyền giáo hội lênh đênh giữa sóng gió trần gian, nhưng luôn có Chúa hiện diện hộ phù.
Cánh cửa đồng chính giữa thuộc đền thờ cũ do Filarete chạm trổ giữa năm 1439 – 1445. Các bức chạm trổ trên cửa diễn tả chúa Giêsu, mẹ Maria, hai thánh Phêrô và Phaolô và cảnh các ngài tử đạo, một vài biến cố dưới thời ĐGH Eugenio IV. Các bức vẽ trên cao diễn tả cảnh thần thoại và Roma, thú vật, hoa trái và chân dung của Hoàng đế. Cửa thứ 2 và thứ 5 là tác phẩm của nhà điêu khắc Manzu.
BÊN TRONG
Bình đựng nước thánh có hai thiên thần bé chầu hai bên cao lớn gần 2m. Trần đền thờ công, mạ vàng, có hình các hộp. Vách tường và nền lót đá cẩm thạch nhiều màu. Gian giữa dài 187m, gian ngang dài 137.50m. Gần cửa ở gian giữa có một phiến đá vân bàn tròn, xưa đặt trước bàn thờ chính (liên quan đến câu chuyện vua Carlomagno đã phủ phục trên phiến đá để được ĐGH Leone III đội triều tấn phong phong làm Hoàng đế phương Tây).
Bốn vòm khổng lồ rộng 13m, cao 23m nâng đỡ trần đền thờ dựa trên các trụ lớn. Ngoài bàn thờ chính giữa có 29 bàn thờ cạnh. Bàn thờ chính nơi ĐGH cử hành thánh lễ (bàn thờ Tuyên xưng Đức tin) với chiếc tàn khổng lồ bằng đồng cao 29m lấy từ Pantheon về của Bernini đúc và trạm trổ (1624 -1633) và ngai tòa sáng chói của thánh Peter. Bàn thờ chính nằm ngay trên phần mộ của thánh Peter, bên trên triền thiên có 4 thiên thần được trang hoàng, các cột có hình cong queo theo kiến trúc cột trong nhà nguyện Pietà, quay mặt ra ngoài. Nhà nguyện trước bàn thờ có 95 ngọn đèn đốt sáng liên tỉ. bên dưới là tượng ĐGH PIO VI quỳ cầu nguyện tạc dở năm 1822 bởi Canova. Trên bàn thờ là hòm đựng hài cốt thánh Phêrô.
Tượng thánh Peter bằng đồng ngồi trên ngai vàng cẩm thạch, bên trên có tàn che. Tượng được điêu khắc vào thế kỉ XIII bởi nhà điêu khắc Arnolfo. Các dịp lễ lớn, tượng sẽ được choàng thêm áo choàng và mũ ba tầng.
MÁI TRÒN: chu vi bên trong 42m, trang trí đơn sơ nhưng chan hòa ánh sáng từ bên ngoài rọi vào qua 16 cửa sổ lớn. Vòm mái chia thành 16 rải quạt trang hoàng với 6 bức đồ khảm đá màu rực rỡ do Cavaliere d'Arpino vẽ: Chúa Cứu thế, Mẹ Maria, các Thánh Tông đồ,… trên chóp đỉnh là Chúa Cha. Mái tròn dựa trên 4 cột trụ khổng lồ chu vu 71m, trang hoàng với các tượng cao 5m: từ bên phải thánh Longino, thánh nữ Elena, thánh nữ Veronica, thánh Arne. Trên bốn gốc là 4 thánh sử, trên nữa là hàng chữ tiếng La tinh: Con là đá và trên đá này Ta sẽ xây Giáo hội của ta và ta sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời.
GIAN DỌC BÊN PHẢI: nhà nguyện có 1 bức tượng Pietà, Đức mẹ ôm xác chúa Jesus được tạc bởi Michelangelo năm 1500 lúc 24 tuổi. Năm 1975, một anh chàng loạn óc đã nhảy lên cầm búa đập khiến bức tượng bị hư hại, sau đó được tu sửa lại và nhà nguyện được chắn kiếng để như ngày nay.
Năm 1962, trong nhà nguyện có một cây cột hình xoáy trôn ốc thuộc thế kỉ VI nhưng được giáo dân tôn kính vì có truyền thuyết cho rằng nó xuất phát từ nhà thờ Jerusalem và Chúa đã từng tựa lưng vào đó. Cây cột này hiện đang đặt trong nhà nguyện thánh nữ Petronilla. Tiếp đến là nhà nguyện Thánh Giá, bên trong có cây Thánh giá thời trung cổ rất quý của Cavallini. Giữa nhà nguyện 2 và 3 là tượng ĐGH Leo XII do Fabris tạc năm 1836. Bên trái là đài tưởng niệm hoàng hậu Christina nước Thụy Điển.
GIAN NGANG CÁNH PHẢI
Thánh đường thánh Phêrô là một nhà thờ theo phong cách Phục Hưng nằm tại thành phố Vatican, phía tây của sông Tiber và gần đồi Janiculum và Lăng Hadrian. Kiến trúc vòm trung tâm của nó nổi bật trên đường chân trời của thành phố Roma. Tới thánh đường phải đi qua Quảng trường Thánh Phêrô, một sân trước có hai phần, cả hai phần được một dãy cột cao bao quanh. Không gian đầu tiên có hình bầu dục và không gian thứ hai có hình thang. Mặt tiền của thánh đường, với một số lượng lớn cột trụ, trải dài trên phần cuối của quảng trường và được nối tiếp bằng các bậc thềm, ở trên đó có hai bức tượng của các tông đồ thế kỷ 1 tới Rome, thánh Phêrô và Phaolô cao 5,55 m (18,2 ft)
Thánh đường có hình chữ thập, với một gian giữa thon dài dưới dạng thánh giá nhưng những thiết kế ban đầu là một cấu trúc tập trung ở giữa và điều này vẫn còn là bằng chứng trong kiến trúc ngày nay. Các không gian trung tâm chi phối cả bên ngoài và bên trong bằng một trong những mái vòm lớn nhất thế giới. Lối vào thông qua một tiền sảnh kéo dài suốt tòa nhà. Một trong những cánh cửa bằng đồng kéo dài từ tiền sảnh là Cửa Thánh, chỉ mở trong dịp lễ Jubilees.
Nội thất của thánh đường này có kích thước rất lớn khi so sánh với các nhà thờ khác. Một tác giả đã viết: "Từ từ chúng ta nhận ra - khi chúng ta thấy mọi người đến gần tượng đài này, điều kỳ lạ xuất hiện khi các khách tham quan có vẻ nhỏ đi, tất nhiên, nhỏ so với quy mô của tất cả mọi thứ trong tòa nhà này. Cảm xúc này đã lấn lướt chúng ta.
Nhà thờ Thánh Phêrô là nơi có nhiều tác phẩm nghệ thuật, đáng kể nhất là các tác phẩm của Michelangelo.
Nhà thờ này được khởi công xây dựng ngày 18 tháng 4 năm 1506 trên nền một nhà thờ khác. Chính Giáo hoàng Giuliô II đã ra lệnh phá bỏ nhà thờ cũ này để xây nhà thờ mới với mong muốn đây sẽ là nơi chôn cất chính mình sau khi mất. Do đó, ông đã chọn họa sĩ nổi tiếng Michelangelo làm người đứng đầu việc xây dựng công trình này. Tuy nhiên, Michelangelo phải nhường vị trí này cho Donato Bramante do một số tranh cãi về việc có nên phá bỏ nhà thờ cũ hay không. Bramante đã cho phá bỏ hầu hết nền nhà thờ 1.200 năm cùng với 4 cây cột.
Sau khi Giáo hoàng Giuliô II và Bramante lần lượt mất năm 1513 và 1514, công trình này bị gián đoạn nhiều lần và được chỉ huy bởi nhiều kiến trúc sư khác nhau. Trong đó có Raffaello, người đã thiết kế và xây dựng nhà thờ với hình dáng giống một cây thập tự. Một thời gian sau, lần lượt các kiến trúc sư Sangallo và Michelangelo tiếp tục việc xây dựng.
Đối với Michelangelo, đây là lần thứ 2 ông chỉ huy công trình này. Ông đã thiết kế mái vòm nổi tiếng, một kỳ tích của kỹ thuật xây dựng bởi đây là công trình xây bằng gạch có khoảng cách bắc cầu tự do lớn nhất (dài 24m, ở độ cao 120 m). Tuy nhiên, Michelangelo không thể hoàn thành mái vòm này (ông mất năm 1564) mà phải nhờ đến kiến trúc sư Giacomo della Porta.
Năm 1626, tức sau 120 năm xây dựng, nhà thờ được khánh thành với 187 m chiều dài và 45m chiều cao với sức chứa trên 60.000 người.
AN NINH
Giáo hoàng được đánh giá là người được bảo vệ nghiêm ngặt nhất trên thế giới
Theo Reuters, sau Hiệp ước Lateran được ký vào năm 1929 với phần quy định về đảm bảo an ninh cho Vatican và người đứng đầu Tòa Thánh, thì bên cạnh hơn 100 Vệ binh Thụy Sĩ luôn túc trực, Giáo hoàng còn được bảo vệ bởi khoảng 2000 nhân viên thuộc các cơ quan an ninh và phản gián như CIA, FBI, đặc nhiệm và mật vụ Italia, cảnh sát Italia, đội hiến binh Vatican, các đặc vụ gián điệp chìm... Khi ra nước ngoài công du, thì theo luật quốc tế, Giáo hoàng được bảo vệ bằng mọi giá bởi các cơ quan an ninh chuyên nghiệp nhất của quốc gia mà ông đến.
An ninh cho Lễ An táng và Đăng quang
Vào tháng 4 năm 2005, một sự kiện đảm bảo an ninh chưa từng có trong lịch sử hiện đại đã diễn ra tại Vatican. Thời điểm đó, có hơn 200 nguyên thủ quốc gia và phái đoàn ngoại giao khắp thế giới, 117 Hồng y bầu chọn Giáo hoàng mới, các nhà lãnh đạo các tôn giáo lớn trên thế giới và gần 5 triệu tín đồ Công giáo tuôn về Vatican dự Lễ An táng Giáo hoàng Gioan Phaolô II, lễ tang lớn nhất trong lịch sử loài người và quy tụ nhiều lãnh đạo thế giới nhất.
Trước tang lễ vào sáng thứ sáu ngày 8 tháng 4 năm 2005, NATO và không quân Italia đã cho thiết lập vùng cấm bay trên không phận toàn thành phố Rôma và bán kính 5 dặm xung quanh đó. Các máy bay chiến đấu cường kích có gắn tên lửa hành trình và tên lửa không đối không cùng hệ thống tên lửa không đối đất của NATO được triển khai. Dưới mặt đất quân đội cũng lắp đặt các hệ thống tên lửa phòng thủ, bệ phóng tên lửa chống hạm và đất đối không xung quanh thành phố Vatican với sự cho phép miễn cưỡng của Hồng y Đoàn vì tình thế quá khẩn trương.
Dọc bờ biển Địa Trung Hải, các tàu chiến của hải quân Italia (Marina Militare) được bố trí tuần tra ngày đêm cùng hệ thống tàu ngầm có ngư lôi tìm diệt và tên lửa hành trình. Trên các con sông bao bọc thành phố Rôma, cảnh sát tuần tra dày đặc bằng thuyền máy và canô, nhất là dòng sông Tiber huyền thoại chảy ngang qua Vatican. Hơn 1000 tay súng bắn tỉa được lệnh án ngữ mọi điểm cao và hỗ trợ cho hàng chục ngàn cảnh sát rà phá bom mìn trên đường phố.
Các trực thăng chiến đấu và trinh sát cũng được huy động để quan sát, bảo vệ Rôma từ trên không. Rôma với 2 triệu người dường như quá tải bởi dòng người gấp 3 lần dân số của nó đổ về. Chiều hôm trước ngày lễ an táng, chính phủ đã cho đóng cửa 2 sân bay bận rộn nhất nước là sân bay quốc tế Leonardo da Vinci (Fiumicino) và sân bay quân sự Ciampino ở Rôma. Các tuyến tàu điện ngầm và xe buýt cũng bị buộc phải ngừng hoạt động đến hết lễ tang.
Những biện pháp an ninh trên cũng được áp dụng cho lễ đăng quang của Giáo hoàng Biển Đức XVI vào ngày 24 tháng 4 năm 2005.
MẬT NGHỊ HỒNG Y
Mật nghị hồng y (hay còn gọi Cơ mật viện bầu Giáo hoàng) là một cuộc họp kín của Hồng y đoàn để bầu ra vị Giám mục của giáo phận Rôma, người sẽ trở thành giáo hoàng của Giáo hội Công giáo thay cho vị Giáo hoàng trước đó vừa qua đời hoặc từ chức. Giáo hội Công giáo xem Đức Giáo hoàng là người kế vị thánh Phêrô để đứng đầu Giáo hội Công giáo tại trần gian.
Trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo hội Công giáo, vị Giám mục Roma được chọn qua một cuộc họp của giáo sĩ và dân chúng Roma. Thành phần của cử tri được xác định một cách rõ ràng hơn, khi vào năm 1059, Hồng y đoàn được chỉ định là cơ cấu bầu cử duy nhất. Năm 1061, diễn ra cuộc Mật nghị Hồng y đầu tiên trong lịch sử, lúc này Hồng y đoàn đã bầu ra Giáo hoàng Alexanđê II.
Năm 1179, Giáo hoàng Alessandro III chính thức quyết việc việc loại trừ giáo dân ra khỏi việc bầu chọn giáo hoàng, và ấn định việc này chỉ dành các các hồng y. Tuy vậy, số lượng Hồng y trong khoảng thời gian này số lượng rất ít, nằm trong khoảng từ 10 cho đến 20 vị, đến thế kỷ XIII thì nhiều hơn chút ít, nhưng không bao giờ vượt trên số lượng là 30 vị. Chính vì số lượng ít này, mà các Hồng y khó có thể thỏa thuận nhằm bầu nên vị tân giáo hoàng, và tình trạng bầu chọn này thì kéo dài, có khi hàng tháng, có trường hợp tính bằng năm.
Giáo dân cho rằng việc kéo dài mật nghị, trống ngôi giáo hoàng là một thiệt hại của Giáo hội, nên trong lịch sử đã ghi nhận 4 trường hợp giáo dân gây sức ép, buộc các hồng y chọn giáo hoàng cách nhanh chóng bằng việc khóa các cửa nơi các hồng y hội họp chọn Giáo hoàng.
Trường hợp thứ nhất diễn ra năm 1216, dân thành Perugia, miền trung Italia đã thực hiện hoạt động khóa kín dinh thự của thành phố, nơi các hồng y chọn để bầu chọn tân giáo hoàng, gây sức ép buộc họ nhanh chóng đạt được thỏa thuận. Trường hợp thứ hai diễn ra tại Roma, ở đây, dân chúng cũng thực hiện các hành vi như thành Perugia, khi chọn nhốt các hồng y trong một dinh thự trên sườn đồi Palatino, trong cuộc bầu chọn người kế vị Giáo hoàng Gregory IX, người qua đời năm 1241.
Các hoạt động này lại tiếp tục tái diễn năm 1243 tại Anagni, sau khi Tòa Thánh trống ngôi đã 2 năm. Trường hợp cuối, gây được tiếng vang là việc dân thành Viterbo, năm 1268, khóa chặt 18 hồng y nhóm họp trong dinh thự giáo hoàng ở Viterbo. Tuy vậy lần này, các hồng y vẫn chưa thể thỏa thuận chọn ra tân giáo hoàng.
Các nhân vật chính trị thế tục cũng muốn xen vào mật nghị này, mà điển hình là vua Pháp và các nhân vật có thế lực khác, nhưng mật nghị vẫn chưa thỏa thuận xong. Dân thành Viterbo, với sự khuyến khích của thánh Bonaventura, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, khóa dinh thự giáo hoàng và xây gạch lấp kín tất cả các cửa. Tuy vậy, các hồng y vẫn chưa đạt được thỏa thuận. Thấy sự việc kéo dài bất lợi, một lần nữa, dân thành leo lên nóc dinh thự, tháo gỡ mái che, chỉ cung cấp cho các Hồng y ăn bánh với nước lã. Sau thời gian trống tòa kỉ lục 2 năm, 9 tháng và 2 ngày, đã bầu chọn được Giáo hoàng Grêgôriô X.
Lịch sử của những cuộc can thiệp chính trị vào việc bầu chọn này và hậu quả của những lần thiếu vắng giáo hoàng trong một thời gian dài, nhất là những sự cố trong cuộc Bầu giáo hoàng 1268-1271, đã khiến Công đồng Lyons thứ hai ra quyết định vào năm 1274 rằng các cử tri phải giữ ở một nơi tách biệt, và không được phép rời khỏi nơi đó cho đến khi một vị Giám mục Roma mới được bầu ra. Mật nghị giờ đây được tổ chức tại nhà nguyện Sistine trong Lâu đài Vatican
Giáo hoàng Grêgôriô X đã công bố tông hiến "Ubi pericolo", thiết lập "mật nghị hồng y" (Conclave). Từ này theo nghĩa Latin là Cumclave, nghĩa là "với chìa khóa". Qua đó muốn nhấn mạnh đến việc giữ bí mật về tất cả những diễn tiến xảy ra kể từ khi các hồng y được thông báo về cái chết hoặc thoái vị của giáo hoàng, cho tới khi bầu chọn được giáo hoàng mới. Thuật ngữ này được sử dụng chính thức đầu tiên vào năm 1216, trong hoàn cảnh các hồng y đã chọn lựa tân giáo hoàng, lấy danh hiệu là Hônôriô III.
Những quy định được đặt ra vô cùng tỉ mỉ lẫn nghiêm ngặt: 10 ngày sau khi giáo hoàng qua đời, các hồng y phải nhóm họp trong cùng dinh Tông Tòa nơi giáo hoàng qua đời, hoặc tại một thành phố khác, tùy theo hoàn cảnh, trong một phòng duy nhất, không có tường cũng chẳng có màn phân chia. Các hồng y buộc phải sống chung, không thể ra ngoài, cũng không được tiếp xúc với bên ngoài, không được nói bí mật với hồng y nào khác. Những chìa khóa nơi mật nghị phải được vị hồng y nhiếp chính giữ ở bên trong, và những chìa khóa bên ngoài do vị tư lệnh đội binh giữ.
Thực phẩm được chuyển vào bên trong mật nghị qua một cửa sổ quay được canh giữ và kiểm soát cẩn mật để không một sứ điệp nào được chuyển qua cửa này. Nếu sau 3 ngày mà các hồng y không bầu được giáo hoàng mới, thì trong 5 ngày kế tiếp, các hồng y chỉ được một đĩa thực phẩm trong bữa ăn trưa và một đĩa trong bữa ăn tối; sau 5 ngày ấy, các hồng y chỉ được bánh, nước lã hoặc rượu mà thôi
Nhà nguyện Sistine là nơi diễn ra một trong những sự kiện đặc biệt và linh thiêng nhất của Giáo hội Công giáo. Đây là địa điểm các hồng y tổ chức bầu giáo hoàng mới sau khi một giáo hoàng qua đời hoặc thoái vị (như trường hợp tháng 2/2013 của Giáo hoàng Benedict XVI).
Các hồng y phải cách ly hoàn toàn với thế giới và họ dùng một bếp lò sắt có ống khói nhỏ để thông báo ra bên ngoài tình hình bầu chọn.
Theo quy định hiện hành, cách thức duy nhất bầu chọn giáo hoàng là mở cuộc bỏ phiếu kín, và ứng viên đắc cử phải có ít nhất 2/3 số phiếu của các cử tri có mặt tại thời điểm bầu cử
Theo truyền thống lâu đời, hai tính chất quan trọng của một Mật nghị Hồng y là tính cô lập và tính bí mật. Hiện nay, với Tông hiến mới nhất quy định về mật nghị, không có yêu cầu bắt buộc phải khóa kín các cửa ra vào và cửa sổ, chặn hành lang và thang máy. Đặc biệt, tính chất bí mật được kiểm tra cách nghiêm ngặt trước những phương tiện thu hình thu âm ngày nay.
Theo quy định từ Tông hiến, trong thời gian mật nghị, các hồng y cử tri dưới 80 tuổi không được phép tiếp xúc với bên ngoài, không được đọc các báo chí, đài Radio, TV, điện thoại,... nói chung là bất kì phương tiện liên lạc nào để liên lạc với bất kì người nào ngoài mật nghị.
Nhiệm vụ của Hồng y Nhiếp chính là yêu cầu các kỹ thuật viên đáng tin kiểm soát mọi ngóc ngách nơi diễn ra mật nghị, phát hiện, tháo gỡ các thiết bị thu âm, thu thanh và thu hình có thể được gắn vào nơi đây. Ngoài các việc trên, tránh bị lợi dụng từ thế giới bên ngoài, luật cấm mọi sự can thiệp từ bên ngoài đối với việc bầu chọn giáo hoàng. Hồng y nào nhận nhiệm vụ từ các chính phủ dân sự, đến mật nghị với yêu cầu phủ quyết bất kì ứng viên giáo hoàng nào, lập tức mang vạ tuyệt thông. Ngoài ra, để đảm bảo tính bí mật đối với các nhân viên phục vụ tại Mật nghị, Giáo hội Công giáo thiết lập vạ tuyệt thông tiền kết, chỉ được hóa giải bởi Tòa Thánh.
Quy tắc nhóm họp và bầu chọn
Mật nghị Hồng y khởi đầu bằng việc cử hành một thánh lễ cầu nguyện cho việc lựa chọn Tân Giáo hoàng. Các hồng y cử tri sau đó bắt đầu cuộc Mật nghị bằng một đoàn rước vào Nhà nguyện Sistine. Sau khi ổn định trong phòng bầu chọn, niên trưởng Hồng y đoàn đọc mẫu tuyên thệ, và mỗi hồng y, xếp hàng, tiến đến đặt tay trên Phúc âm, và tuyên thệ: ‘Tôi xin hứa quyết, bảo đảm và thề nguyền’.

Mua vé tham quan Bảo tàng Vatican và Nhà nguyện Sistine ở ĐÂY
Ngoài tính bí mật được tuyên hứa được giữ gìn, các hồng y còn tuyên hứa giữ quy định Tông hiến Mục tử toàn thể đoàn chiên Chúa ‘Universi Dominici gregis’ và các nghi thức tuyên thệ khác, trong lịch sử, không có bất cứ mật nghị nào không có nghi thức tuyên thệ này. Sau khi các nghi thức tuyên thệ chấm dứt, vị trưởng ban lễ nghi tuyên bố cách rõ ràng và dõng dạc ‘extra omnes’, từ lúc đó, các cá nhân không có quyền tham dự mật nghị, phải rời Nhà nguyện Sistine.
Theo quy định, mỗi ngày các hồng y phải nhóm họp hai lần, sáng và chiều, tại Nhà nguyện Sistine, để bầu chọn tân giáo hoàng. Mỗi buổi tụ họp như vậy, nếu điều kiện cho phép, có thể tổ chức hai vòng bỏ phiếu. Một yêu cầu tỉ mỉ hơn đối với việc lựa chọn giáo hoàng, hồng y cử tri khi bỏ phiếu, giơ cao lá phiếu và đọc lời tuyên thệ: "Tôi xin Chúa Kitô, Đấng sẽ xét xử tội, làm chứng rằng tôi bỏ phiếu cho người mà, theo Chúa, tôi thấy là phải bầu". Ngoài ra, để đảm bảo mọi hồng y dù đã đến dự họp nhưng vì tuổi cao sức yếu, bệnh liệt giường, thì nằm tại Nhà trọ thánh Marta, khi đó có 3 hồng y đem thùng phiếu chọn đến tận phòng của vị ấy.
Các hồng y sẽ viết sự tên ứng viên mình lựa chọn lệ phiếu bầu và gấp lại làm đôi. Sau khi hoàn thành công việc chọn ứng viên, các hồng y xếp hàng đến nơi bỏ phiếu. Khi phiếu đã được bỏ xong, các hồng y kiểm phiếu thực hiện động tác lắc mạnh thùng phiếu nhiều lần, nhằm mục đích hòa lẫn các phiếu, sau đó tiến hành kiểm đếm. Trong trường hợp phát hiện có số phiếu không tương ứng với số cử tri, thì tất cả phiếu này bị đốt đi, và các hồng y tiến hành bỏ phiếu lại.
Nếu số lượng phiếu bầu tương đương số lượng hồng y cử tri, sẽ tiến hành xác định kết quả bầu chọn. Một trong 3 hồng y kiểm phiếu sẽ có trách nhiệm dùng kim khâu các lá phiếu đã kiểm tra kết quả.
Nếu sau nhiều vòng bầu chọn đầu tiên, cụ thể là ba ngày đầu tiên bỏ phiếu mà các hồng y không thể chọn ra tân giáo hoàng, các hồng y cử tri phải dành một ngày, tập trung cầu nguyện, trao đổi ý kiến và nghe huấn dụ của Hồng y trưởng đẳng Phó tế, sau đó, tiếp tục thực hiện quy trình bầu cử khép kín. Trường hợp tiếp tục sau 7 lần bỏ phiếu nữa mà vẫn không có kết quả, thì nhóm hồng y cử tri tiếp tục tạm dừng việc bầu cử, chú tâm cầu nguyện và trao đổi với nhau. Lại nếu sau 7 lần bỏ phiếu, mà vẫn chưa có kết quả chọn tân giáo hoàng, thì tiếp tục tạm ngưng và diễn ra các hoạt động như cũ.
Cuộc bầu chọn trở nên phức tạp nếu đến lần bỏ phiếu thứ 33 hoặc 34 mà không kết quả 2/3 số phiếu thì các Hồng y được phát biểu ý kiến của mình về cách thức bầu cử mới, nếu cách đó đạt được đa số tuyệt đối các cử tri. Các hồng y cử tri cũng có thể tách riêng 2 vị đạt được số phiếu cao nhất, mời hồng y cử tri lựa chọn trừ chính hai vị ấy, vị nào đạt quá bán phiếu bầu chọn thì đắc cử được mời gọi phát biểu ý kiến về cách bầu cử và sau đó sẽ tiến hành việc bầu theo sự quyết định của đa số tuyệt đối các cử tri.
Sau mỗi vòng bầu chọn, các lá phiếu bầu chọn sẽ bị đốt trong một bếp lò đặt tại góc tường nhà nguyện. Theo truyền thống, khói đen bốc lên từ ống khói từ việc đốt cháy các lá phiếu, bay lên trên nóc nhà nguyện biểu thị một vòng bỏ phiếu chưa thu được kết quả. Khói trắng bốc lên, và bắt đầu từ năm 2005 có kèm theo chuông reo từ Thánh đường Thánh Phêrô, là dấu hiệu cho thấy các hồng y đã chọn được giáo hoàng.
Sau khi bầu chọn thành công, các hồng y tiến đến chúc mừng tân giáo hoàng, đồng thời có hành động bày tỏ sự vâng phục tuyệt đối vị tân giáo hoàng. Mọi nghi thức kết thúc, vị Hồng y trưởng đẳng Phó tế loan báo cho dân chúng tụ tập quanh Tòa Thành danh hiệu mà tân giáo hoàng đã chọn, bằng lời chào Habemus Papam. Tân giáo hoàng sẽ tiến ra ban công Đền thờ Thánh Phêrô ban phép lành cho Roma và toàn thế giới Urbi et Orbi.
Số lượng hồng y cử tri
Năm 1179, hồng y đoàn là tổ chức cao nhất trong giáo hội được thành lập để bầu chọn giáo hoàng. Lúc đầu hồng y đoàn được giới hạn con số là 24 vị. Sau đó Giáo hoàng Phaolô IV nâng số hồng y lên 70 vị.
Ngày 22 tháng 2 năm 1996, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho phép con số hồng y có thể lên tới 180 vị, nhưng chỉ các hồng y dưới 80 tuổi mới được tham gia Mật nghị Hồng y để bầu giáo hoàng và số hồng y này sẽ không vượt quá 120 vị.
Ngày 11 tháng 6 năm 2007, tông huấn Universi Dominici Gregis được bổ sung bởi motu proprio của Giáo hoàng Benedict XVI rằng cần phải có một đa số chấp thuận hai-phần-ba để bầu một vị giáo hoàng mới.
Thông tin cần thiết.
Rất nhiều thông tin quan trọng.